Lễ hội hoa lư

LỄ HỘI HOA LƯ

(LỄ HỘI TRƯỜNG YÊN)

(Xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình)

Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia

         Lễ hội Hoa Lư hay dân gian còn gọi là lễ hội Trường Yên diễn ra từ ngày mồng 8 - 10 tháng Ba âm lịch hàng năm (3 năm thì tổ chức lớn một lần - hội chính), diễn ra trên địa bàn Trung tâm Cố đô - nay thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình - là nơi ngự tọa của hai ngôi đền: đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng và đền thờ vua Lê Đại Hành (dân gian thường gọi là đền vua Đinh và đền vua Lê). Ngoài hai ngôi đền này, không gian của lễ hội truyền thống cố đô Hoa Lư còn gắn liền với các di tích như: chùa Nhất Trụ, đền bà chúa Phất Kim, động Am Tiên, chùa động Thiên Tôn, Xuyên Thủy động, ao Giải, hang Muối, hang Tiền…

         Lễ hội Hoa Lư được mở rộng quy mô từ khoảng những năm 1930 - 1940. Từ đó đến nay, các cuộc tế, rước, diễn xướng diễn ra bề thế, nhất là vào dịp hội chính.

         Lễ hội truyền thống cố đô Hoa Lư nhằm tưởng nhớ đến hai vị vua và các bậc tiền bối khai quốc công thần của hai triều đại Đinh - Lê như: Quan ngoại Giáp Đinh Điền, Định Quốc công Nguyễn Bặc, Vệ úy Phạm Hạp, Đô hộ phủ Sĩ Cư Lưu Cơ, Thần Vệ tướng quân Phạm Phòng Át, Phò mã Đô úy Trần Thăng (Nha hiệu Giang Cư), Nam Việt Vương Đinh Liễn, Vệ Vương Đinh Toàn (2 vị này là con vua Đinh), Khuông Việt Đại sư Ngô Chân Lưu, Tăng Lục đạo sĩ Trương Ma Ni, Sùng chân uy nghi Đặng Huyền Quang, Công chúa Phất Kim (con gái vua Lê Đại Hành)…

         Lễ hội là sự kế tục, phát huy những tinh hoa giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, mang ý nghĩa lịch sử văn hóa và nhân văn sâu sắc, với những nghi lễ tiêu biểu như: lễ mộc dục, lễ rước lửa (từ đến vua Đinh lên đỉnh Mã Yên), lễ rước nước (từ sông Hoàng Long về đền thờ vua Đinh), lễ dâng hương (ở đền vua Đinh và đền vua Lê), biểu diễn tập trận cờ lau, tế nữ quan, tế ca Cửu khúc, múa rồng, sư tử, rước tượng bà Thái Hậu, đánh tượng Đỗ Thích, tổ tôm điếm, kéo chữ...

1. Lễ mộc dục

         Lễ mộc dục là lễ tắm tượng, nghi lễ này được tiến hành vào giờ tý của ngày khai hội. Trước khi làm lễ, thủ từ phải làm lễ cáo xin phép vua cho được thực hiện nghi lễ mộc dục và làm lễ gia quan (mặc áo, đội mũ cho tượng).

2. Lễ rước nước

         Công việc chuẩn bị cho đám rước được thực hiện trước một ngày. Người ta cắm sẵn ở giữa dòng sông Hoàng Long - nơi có mực nước khá sâu một cây tre to. Ngọn tre có treo một dải phướn bằng giấy màu vàng với chiều dài khoảng gần một mét, chiều rộng khoảng một gang tay. Đoàn rước nước bắt đầu rước từ đền thờ vua Đinh ra bến Hoàng Long vào buổi sáng ngày khai hội, thường vào giờ Thìn. Đi đầu là người mang cờ ngũ sắc lớn, tiếp đến là phường bát âm, gồm có: đàn sáo, trống, mõ, nhị, thanh la. Tiếp theo là kiệu bát cống có đặt hương án phủ vải điều, bên trong đặt một chóe nước cỡ lớn. Kiệu do các trai tráng được tuyển chọn khiêng. Tiếp đến là những cỗ kiệu song hành, bát cống. Trên kiệu có hương hoa, nến, quả phẩm. Cạnh mỗi cỗ kiệu là một bô lão đi xin thần sông cho nguồn nước quý… Sau kiệu là đoàn quan khách về tham dự lễ hội. Khi đến bến sông, kiệu rước chóe nước được đưa xuống thuyền, tiếp đến là sư tử, rồng vàng, phường bát âm. Tới gần điểm xin nước, các thuyền rồng sư tử quay mũi chầu về nơi có cây nêu, nhạc ngừng. Vị chủ tế trịnh trọng đọc bản sớ trình xin nước. Đọc xong sớ, bốn cô gái chưa chồng múc nước sông đổ vào chóe. Khi các cô gái múc nước sông đổ vào bình, tiếng trống nổi lên như để tạ ơn thần sông. Mọi người lễ vái, hoan hỉ rước nước lên kiệu về đền vua Đinh.

         Năm 1983, lễ rước nước có một số biến đổi. Đội hình rước nước: Dẫn đầu là đội trống (trống cái, trống con), tiếp đến là ba cỗ lọng lớn, đoàn người mang bát bửu, đoàn người mang cờ tổ quốc, cờ hội. Trang bị các thuyền trên sông (thuyền nan) gồm: Cờ hội (mỗi thuyền một cờ ngũ sắc), cờ phướn (6 - 8 cờ), người vận trang phục ngày hội ngồi hai bên mạn thuyền, cầm mái chèo bơi thuyền (tựa bơi chải). Các cụ bô lão với trang phục quần áo dài thụng xanh thắt lưng, mũ cánh chuồn, cầm hai bình sứ cổ, loại bình cỡ trung giao cho các thiếu nữ múc nước. Hai bình nước này có thể biểu hiện cho hai triều đại Đinh và Lê. Thanh la gồm 10 chiếc, mỗi thuyền một chiếc. Khiêng kiệu rước nước (kiệu bát cống) là 8 cô gái mặc áo dài tân thời. Hai bình nước được rước về đặt ở hai bên bệ thờ chính tẩm đền vua Đinh.

         Năm 1997, cuộc rước nước diễn ra bề thế long trọng vào khoảng giờ thìn ngày mồng 9 tháng 3 âm lịch. Đi đầu đoàn rước là kiệu bát cống chở bình sứ đựng nước, tiếp theo là đội rồng sư tử, phường bát âm, các đoàn đại biểu, dân chúng. Đến bờ sông, sư tử rồng vàng xuống thuyền trước (sư tử một thuyền, rồng vàng ba thuyền), tiếp đến là thuyền chở hương án có đặt một bình sứ cỡ lớn, đoàn trống nhạc bát âm bát bửu… Trên bến sông có rất nhiều thiếu niên đội mũ nghi thức đội, cầm kiếm, cờ lau, đầu chít khăn đỏ tượng trưng cho lớp trẻ thời Đinh Bộ Lĩnh tập trận. Tiếp theo thuyền rồng, sư tử là thuyền chở hương án, có ba cụ bô lão với trang phục hai áo thụng xanh, một áo thụng vàng, mũ quan triều, rồi đến thuyền các vị chức sắc, đại biểu, nam thanh nữ tú. Phía trước mỗi thuyền có một thiếu niên chít khăn đỏ thủ rìu dơ cao cây bát bửu sơn son thiếp vàng. Riêng đứng đầu thuyền chở sư tử là một phụ nữ trang phục ngày hội, chắp tay phía trước ngực, đọc những lời khấn tế trước khi tiến hành việc lấy nước sông. Một vị bô lão cầm tờ sớ tấu bên cạnh cây nêu, phía trước là hương án đặt bình sứ làm lễ tấu. Gần đó là các cô gái đốt những tờ tiền vàng mã rồi thả xuống sông. Lúc đó rồng múa uốn lượn thể hiện động tác uống nước cạnh cây nêu, hai cô gái múc nước đổ vào bình sứ. Lúc rước nước trở về, đoàn rước đi theo thứ tự: sư tử ký cầu, trống rước cùng cờ đỏ sao vàng, rồng vàng, cờ phướn, kiệu rước, phường bát âm cử nhạc, đoàn người dự lễ. Khi về đến sân đền vua Đinh, hai bô lão rước bình nước vào cửa đền. Phía trong hai cô gái đỡ bình nước từ tay các bô lão đưa vào nhang án chính tẩm. Ông từ khăn áo chỉnh tề làm nghi lễ thắp hương. Các vị khách lần lượt thắp hương vái vua Đinh.

3. Lễ dâng hương đền vua Đinh

         Lễ dâng hương bắt đầu bằng 3 hồi trống đại với 9 tiếng chiêng, phường bát âm cử nhạc. Sau đó, các vị chức sắc, các đoàn tế lần lượt dâng hương theo nội dung: dâng hương, cúc cung bái, dâng hương tuần đầu, đọc lời chúc bằng chữ Hán, Nôm (ngày nay là chữ Quốc ngữ), cúc cung bái, dâng hai tuần rượu.

4. Tế nữ quan

         Tham gia tế nữ quan là các đoàn tế của địa phương và các nơi khác đến giao lưu. Đội tế nữ quan thường trên 10 người, mặc quần áo tế, thắt lưng, mũ kim tuyến, chân đi giày, với các vai chánh tế, bồi tế, chấp sự,…

         Tuần tự cuộc tế: đông xướng, tây xướng, nhạc sênh tựu vị (đội nhạc dân tộc vào vị trí), chủ soát tế vật (người chấp sự dẫn chủ tế vào nội điện đền vua Đinh xem xét lễ vật, tế chủ cập các chấp sự giả nghệ quán tẩy sở (chủ tế, bồi tế đến chỗ rửa tay và lau tay), bồi tế viên tựu vị (bồi tế vào chiếu hoa cạp điều trải trên sân đền), tế chủ tựu vị (chủ tế vào chiếu), thượng hương (hai chấp sự hai bên bưng đỉnh lư hương và hộp đựng trầm hương giao cho chủ tế. Chủ tế quỳ vái và đặt lên hương án.

         Từ lúc này, nhạc bát âm bắt đầu nổi lên cho đến hết cuộc tế (gồm trống cái, trống con, mõ, não bạt, sáo, nhị, gần đây có cả người biểu diễn múa chén), nghênh thần cúc cung bái (chủ tế, bồi tế bái bốn lạy), bình thân phục vị (đoàn tế đứng nghiêm trang kính cẩn hai tay vòng trước ngực), hành sơ hiến lễ (tiến hành dâng rượu lần thứ nhất, do bồi tế trịnh trọng đưa be rượu hoặc quả rượu cho chủ tế dâng lên hương án), nghệ tửu tượng sở, tửu tượng giả cử mịch (một người nội tán đứng dưới tán bước lên mở nút chai rượu), chước tửu (rót rượu ra chén), nghệ hương án tiền (chủ tế cùng hai vị nội tán bước lên chiếu trước gần hương án), quỵ, tiến tước, phủ phục, hơng, bình thân, độc chúc, chuyển chúc, phủ phục, hơng bái, tiến tửu (2 lần cách thức như lần đầu) hóa chúc, đốt bản văn chúc, lễ tạ.

5. Tế ca Cửu khúc đền vua Đinh

         Tế ca Cửu khúc là nghi lễ cổ xưa trong lễ hội Hoa Lư, được tiến hành vào các đêm diễn ra lễ hội. Tế ca Cửu khúc diễn ra tại sân rồng đền vua Đinh, do các bô lão của xã Trường Yên đảm nhận. Do nghi thức diễn ra trong ba ngày nên việc kén người tham dự phải đảm bảo về sức khỏe. Tuy nhiên, nghi thức này đã bị mai một từ sau năm 1945. Đến năm 1994, đội tế nữ quan xã Trường Yên được thành lập, nghi thức tế ca Cửu khúc được khôi phục và được đội tế nữ quan đảm nhận. Năm 2017, Sở Văn hóa, Thể thao tỉnh Ninh Bình đã tiến hành phục dựng nghi thức tế ca Cửu khúc đền vua Đinh do đội tế nam quan đảm nhận.

         Nhìn chung, nghi thức tế ca Cửu khúc là chín khúc tấu, ca ngợi công đức vua Đinh Tiên Hoàng được lồng ghép với nghi thức tế lễ truyền thống.

         Nội dung nghi thức tế ca Cửu khúc:

         - Thông xướng hô: Khởi chinh cổ.

         Ba hồi chín tiếng chiêng trống nổi lên.

         - Thông xướng hô: Cổ sơ nghiêm

         Vũ nữ rung nhạc ở cổ tay, tung khăn múa hết một vòng, hồi trống dứt.

         - Thông xướng hô: Cổ tái nghiêm.

         Vũ nữ rung nhạc, vung khăn múa hai vòng, ba hồi trống chiêng dứt.

         - Thông xướng hô: Cổ tam nghiêm.

         Vũ nữ vung nhạc, tung khăn múa hết ba vòng, hồi trống tam nghiêm dứt.

         Tiếp theo vào cuộc hiến tế chính thức, các tế viên theo lời xướng hướng dẫn của thông xướng viên theo đúng cửu khúc.

         - Thông xướng hô:

“Kiệu tay lọng lá cờ lau

Anh hùng trong đám chăn trâu thuở nào

Đến khi áo vải cờ đào

Cứu dân dựng nước xiết bao lẫy lừng

Nhớ câu uống nước nhớ nguồn

Tiến hành hiến tế dâng lên cửu trùng

Vui mừng ca khúc nguyên hòa”.

         - Thông xướng hô: Chấp sự giả các tư kỳ sự. Tất cả các tế viên đứng vào vị trí của mình

         - Thông xướng hô: Nghệ quán tẩy sở

         Chấp sự hướng dẫn chánh tế đến đài quán tẩy

         - Thông xướng hô: Quán tẩy thuế cân Chánh tế rửa tay, lau tay

         - Thông xướng hô: Củ soát tế vật

         Chấp sự, giám quan, vũ nữ dẫn chánh tề vào cung xem xét lễ vật, riêng giám quan đến cửu cung thì đứng lại. Khi chánh tế kiểm tra lễ vật xong thì trở ra đứng ở cuối chiếu 3.

         - Thông xướng hô: Lễ vật cụ túc

         - Thông xướng hô: Phân hiến viên tựu vị

         Hai phân hiến vào vị trí của mình

         - Thông xướng hô: Bồi tế viên tựu vị

         Hai bồi tế vào vị trí của mình

         - Thông xướng hô: Mạnh bái quan tựu vị

         Mạnh bái vào vị trí của mình

         - Thông xướng hô: Nghệ Hoàng đế ngự tiền

         Hai vũ nữ rung nhạc đi trước, rồi hai chấp sự, chánh tế lên chiếu thượng tịch (chiếu 1).

         - Thông xướng hô: Quỵ giai quỵ

         Chánh tế, chấp sự, và vũ nữ đều quỳ.

         - Thông xướng hô: Thượng hương

         Chấp sự đốt hương, chánh tế cầm hương vái và đưa cho chấp sự đem cắm vào bát hương.

         - Thông xướng hô: Tấu Nguyên hòa khúc

         Ca nữ vào chiếu tấu và ca khúc Nguyên hòa, tấu viên và ca viên đều đứng khi tấu và ca.

         - Thông xướng hô: Phủ phục

         Mọi người cúi xuống lễ một lễ.

         - Thông xướng hô: Bình thân phục vị.

         Tất cả mọi người đều trở về hạ tịch (chiếu dưới).

         - Thông xướng hô: Nghinh thần tấu Thái hòa khúc. Ca nữ vào chiếu tấu và ca khúc Thái hòa.

         - Thông xướng hô: Nghinh thần cúc cung bái.

         Mọi người cúi xuống lễ năm lễ.

         - Thông xướng hô: Sơ hiến lễ nghệ tửu tôn sở

         Nghệ Hoàng đế ngự tiền

         Chấp sự đến đến án bưng đài rượu, vũ nữ múa đi trước, chánh tế, giám quan bước lên chiếu 1.

         - Thông xướng hô: Quỵ, giai quỵ. Mọi người đều quỳ.

         - Thông xướng hô: Chước tửu, hiến tửu.

         Chấp sự dâng đài rượu cho chánh tế, chánh tế rót rượu, vái, và đưa chấp sự.

         - Thông xướng hô: Tiến tước. Chấp sự tiến đài rượu vào cung.

         - Thông xướng hô: Sơ hiến tấu ca Thọ hòa khúc. Ca nữ vào chiếu tấu và ca khúc Thọ hòa.

         - Thông xướng hô: Phủ phục.

         Mọi người cúi lễ một lễ.

         - Thông xướng hô: Sơ hiến lễ, phân hiến quỵ. Hai phân hiến quỳ xuống.

         - Thông xướng hô: Tiến tước tại vị.

         Người trực trong cung rót rượu tại vị, đánh chuông báo.

         - Thông xướng hô: Phủ phục Hai phân hiến lễ một lễ.

         - Thông xướng hô: Nghệ Hoàng đế ngự tiền. Phụng chúc nghệ độc chúc vị.

         Chánh tế, người mang chúc, người đọc chúc, vũ nữ bước lên chiếu trên.

          - Thông xướng hô: Quỵ, giai quỵ. Mọi người quỳ xuống.

         - Thông xướng hô: Độc chúc.

         Người dâng chúc đưa chúc cho chánh tế vái rồi đưa cho người đọc chúc đọc. Người đọc chúc đọc rõ ràng, uyển chuyển, khi đọc đến danh hiệu vua và các vị phối thờ phải đọc nhỏ.

         - Thông xướng hô: Tấu Dự hòa khúc Người tấu và ca vào chiếu tấu và ca.

         - Thông xướng hô: Phủ phục.

         Mọi người cùng lễ ba lễ.

         - Thông xướng hô: Bình thân phục vị. Mọi người lùi về chiếu dưới.

         - Thông xướng hô: Á hiến lễ nghệ tửu tôn sở. Chấp sự đến chỗ để đài rượu.

         - Thông xướng hô: Nghệ Hoàng đế ngự tiền. Chánh tế, chấp sự, vũ nữ bước lên chiếu trên.

         - Thông xướng hô: Quỵ, giai quỵ.

         Mọi người đều quỳ.

         - Thông xướng hô: Chước tửu, hiến tửu.

         Chấp sự đưa đài rượu cho chánh tế rót, chánh tế vái rồi đưa cho chấp sự.

         - Thông xướng hô: Tiến tước.

         Chấp sự tiến rượu vào cung, vũ nữ múa theo chấp sự.

         - Thông xướng hô: Á hiến tấu ca Ninh hòa khúc. Ca nữ vào chiếu tấu, ca khúc Ninh hòa.

         - Thông xướng hô: Phủ phục.

         Mọi người lễ một lễ.

         - Thông xướng hô: Bình thân phục vị.

         Chánh tế, chấp sự, vũ nữ về chiếu dưới (chiếu 3).

         - Thông xướng hô: Á hiến lễ, phân hiến quỵ. Hai phân hiến quỳ.

         - Thông xướng hô: Tiến tước tại vị.

         Người trong cung rót rượu các phối vị rồi đánh chuông báo.

         - Thông xướng hô: Phủ phục. Hai phân hiến lễ xuống một lễ.

         - Thông xướng hô: Chung hiến lễ nghệ tửu tôn sở. Chấp sự đi đến đài rượu.

         - Thông xướng hô: Nghệ Hoàng đế ngự tiền. Chánh tế, chấp sự, vũ nữ bước lên chiếu trên.

         - Thông xướng hô: Quỵ, giai quỵ.

         Chánh tế, chấp sự, vũ nữ quỳ xuống.

         - Thông xướng hô: Chước tửu, hiến tửu.

         Chấp sự đưa đài rượu cho chánh tế rót rượu, vái, rồi đưa cho chấp sự.

         - Thông xướng hô: Tiến tước.

         Chấp sự và vũ nữ tiến rượu vào cung.

         - Thông xướng hô: Tấu, ca An hòa khúc. Ca công tấu, ca An hòa khúc.

         - Thông xướng hô: Phủ phục.

         Tất cả mọi người lễ một lễ.

         - Thông xướng hô: Chung hiến lễ, phân hiến quỵ. Hai phân hiến quỳ xuống.

         - Thông xướng hô: Tiến tước tại vị.

         Trong cung rót rượu cho các phối vị rồi đánh chuông báo.

         - Thông xướng hô: Phủ phục. Hai phân hiến lễ một lễ.

         - Thông xướng hô: Bình thân tiến trà.

         Chấp sự bưng khay trà đưa cho chánh tế, chánh tế rót trà rồi vái mộtvái, và đưa cho chấp sự tiến vào cung.

         - Thông xướng hô: Bình thân phục vị.

         Chánh tế cùng mọi người về hạ tịch.

         - Thông xướng hô: Tứ phước tộ, nghệ ẩm phước vị.

         Chánh tế bước lên chiếu giữa, chấp sự vào cung mang khay lộc ra đứng bên chánh tế.

         - Thông xướng hô: Quỵ, giai quỵ. Chánh tế và chấp sự quỳ.

         - Thông xướng hô: Thụ tộ.

         Chấp sự đưa lộc, chánh tế nhận rồi vái, thụ lộc xong chánh tế trả lại chén cho chấp sự.

         - Thông xướng hô: Tấu ca khúc Hài hòa. Ca nữ vào chiếu tấu, ca khúc Hài hòa.

         - Thông xướng hô: Tạ tộ cúc cung bái. Mọi người cùng lễ xuống ba lễ.

         - Thông xướng hô: Nghệ hoàng đế ngự tiền. Mọi người bước lên chiếu trên.

         - Thông xướng hô: Phủng chúc nghệ vọng liệu sở. Người mang chúc đến nơi hóa chúc.

         - Thông xướng hô: Liệu chúc.

         Người đốt chúc vừa đốt vừa ca bài: “Tán chúc đồng”.

         - Thông xướng hô: Tấu ca khúc Thuần hòa. Ca nữ vào chiếu tấu, ca khúc Thuần hòa.

         - Thông xướng hô: Phủ phục.

         Mọi người cùng lễ xuống một lễ.

         - Thông xướng hô: Bình thân phục vị.

         Mọi người trở về chiếu dưới.

         - Thông xướng hô: Lễ thành tấu, ca khúc Ung hòa. Ca nữ vào chiếu tấu, ca khúc Ung hòa.

         - Thông xướng hô: Lễ thành tạ lễ cúc cung bái.

         Tất cả mọi người cúi xuống lễ năm lễ.

         Lễ xong mọi người sắp hàng ngang.

         - Thông xướng hô: Lễ tất tam khấu đầu.

         Tất cả đoàn tế vái ba vái rồi lùi ra khỏi chiếu tế.

6. Cờ lau tập trận

         Đây là tiết mục diễn xướng dân gian kể về thời niên thiếu vua Đinh, được khôi phục từ năm 1983 sau mấy chục năm vắng bóng. Thành phần tham gia là các em thiếu nhi, tất cả chia làm hai nhóm, tượng trưng hai phe. Chủ soái của các nhóm này với trang phục đỏ, thắt đai lưng trong vai Đinh Bộ Lĩnh. Sau ba hồi chiêng trống, tù và, chủ tướng thiếu niên dõng dạc nói to, chiêng trống nổi lên liên hồi. một tốp đấu kiếm, một tốp đấu gậy. Đàn trâu làm bằng khung tre, phất giấy bằng nhựa cây do các thiếu nhi đội lốt xung trận. Sau câu đối đáp khiêu khích, các toán quân xung trận, tả xung hữu đột. Lúc này “Đinh Bộ Lĩnh” dẫn quân Thung Sách đến giảng hòa, mang hoa quả tặng quân sĩ. Kết thúc cuộc tập trận có bài hát:

“Trận bày lọng nón gươm dâu

Cờ lau phấp phới đàn trâu tung hoành

Ba thung mười đạo mười dinh

Tài ba lẫm liệt uy danh lôi đình

Muôn đời chủ soái oai linh

Đến ngày gặp hội thái bình mở mang”.

7. Tục kéo chữ

         Mỗi đội kéo chữ khoảng 50 - 60 người (chủ yếu là nữ thanh niên) mặc đồng phục. Mỗi người chuẩn bị một gậy tre dài 1,5m, quấn giấy màu. Người kéo chữ chân quấn xà cạp đi giày vải, đầu chít khăn. Dẫn đầu là hai lá cờ tiền, sau cùng là hai cờ hậu, gọi là cờ Ngũ hành. Vai trò người cầm cờ tiền là phải thông thạo đường chạy để đoàn quân vào chữ “Thái bình”, “Thịnh Trị”, “Đinh” sao cho khéo.

8. Tục thổi cơm thi

         Các cô gái tham gia cuộc thi “mặc áo thay vai, thắt khăn hoa lý”, đầu chít khăn mỏ quạ, tóc bỏ đuôi gà, quần (váy) lụa nái đen, biết hát trống quân và cò lả. Vật dụng mỗi người gồm: một bó đũa lau dài ngắn do quy định, một quang treo bằng dây sắt, có cần bằng tre cầm, một niêu bằng đồng hoặc đất, gạo, nước đủ dùng. Bắt đầu cuộc thi, mỗi người một tay cầm cần tre có quang treo niêu, một tay cầm bó đuốc vừa đi quanh sân đền vừa hơ lửa nấu cơm, miệng hát. Người đạt giải là người nấu cơm ngon và mau chóng, hát hay và duyên dáng. Tục này đã bị mai một khá lâu, hiện nay vẫn chưa được khôi phục lại.