CỘT KINH PHẬT THỜI ĐINH (TKX) - BẢO VẬT QUỐC GIA
Bộ sưu tập Cột kinh Phật thời Đinh (do Nam Việt vương Đinh Khuông Liễn - con trai trưởng của vua Đinh Tiên Hoàng cho dựng trong 6 năm từ năm 973-979) được phát hiện ở khu vực ven sông Hoàng Long thuộc địa phận xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Khu vực này, hiện nay vẫn còn dấu tích các đá tảng được cho là thuộc về một kiến trúc chùa tháp Phật giáo lớn, theo khẩu truyền ở địa phương thì đây chính là địa điểm chùa tháp BáoThiên thời Đinh - Tiền Lê.
Cột kinh Phật được tạo tác bằng đá, cấu tạo gồm 6 bộ phận: chân tảng, chân đế, thân cột, thớt đệm, đài sen và búp sen. Các bộ phận được lắp gá với nhau bằng hệ thống mộng ngõng, không chất phụ gia kết dính, không sử dụng chằng buộc hay vật liệu chống đỡ khác, được dựng thẳng đứng trên mặt đất.
Chân tảng là bộ phận dưới cùng của cột kinh, hình hộp vuông, mặt trên có lỗ mộng tròn ở giữa. Kích thước giữa các chân tảng không đồng đều (dài rộng trong khoảng từ 30,5cm x 30,5cm đến 36cm x 36cm; cao từ 11cm đến 15cm)
Chân đế là hình bán cầu, đường kính to thu nhỏ dần theo hướng từ trên xuống dưới. Trên mặt chân đế có lỗ mộng tròn ở giữa, mặt dưới có ngõng để lắp khớp với chân tảng. Kích thước giữa các chân đế không đồng đều (chiều cao trong khoảng từ 8,5cm - 13cm, đường kính mặt trên từ 21cm - 27,5cm).
Thân cột là hình trụ bát giác, xu hướng thu nhỏ dần từ dưới lên phía trên. Các mặt của thân cột khắc các bài kinh, kệ hoặc lạc khoản bằng chữ Hán. Hai đầu thân cột đều có ngõng để lắp khớp với chân đế và thớt đệm. Kích thước giữa các thân cột không đồng đều: chiều cao (trừ các thân cột bị gãy hoặc chỉ còn lại 1 phần) các thân cột còn lại có chiều cao từ 50cm - 69cm; đường kính từ 15,5cm - 17cm (mặt trên) và 15cm -19cm (mặt dưới).
Thớt đệm là hình bát giác, mặt trên có ngõng để lắp khớp với đài sen, mặt dưới có lỗ mộng tròn để lắp với thân cột, các cạnh của thớt đệm chia tương đối bằng nhau. Kích thước giữa các thớt đệm không đồng đều: cao từ 5cm - 6,32cm; đường kính 22,5 cm - 27cm.
Đài sen là hình bán cầu, đường kính to thu nhỏ dần theo hướng từ trên xuống dưới. Đường gờ miệng mặt trên uốn lượn tạo nên 8 đỉnh nhọn. Mặt trên có lỗ mộng tròn để lắp khớp với phần búp sen, mặt dưới có lỗ mộng tròn để lắp khớp với thớt đệm. Kích thước giữa các đài sen không đồng đều: cao từ 6 cm đến 9cm, đường kính mặt trên từ 20,5cm -25cm.
Búp sen là bộ phận trên cùng của cột kinh, nhọn dần lên trên theo hình dáng búp sen, thân có những vòng thắt cổ bồng, mặt dưới có ngõng để khớp với đài sen.
Trên các mặt của thân cột khắc văn tự chữ Hán. Tuy nhiên, hiện nay nhiều chữ đã bị mờ, chỉ còn một số có thể đọc được chữ. Số chữ Hán trên cột khoảng từ 545 đến 563 chữ, trong đó phần lạc khoản chiếm khoảng 1/3 (130 - 140 chữ), phần kinh từ 413 - 422 chữ.
Về nội dung, những phần chữ Hán còn đọc được trên các mặt của thân cột kinh cho thấy minh văn cột kinh thời Đinh khắc nội dung gồm 2 phần: kinh Phật và lạc khoản. Ở phần kinh, đều khắc bài chú phiên âm từ tiếng Phạn trong kinh Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà la ni, còn gọi là Phật Đỉnh Tối Thắng Đà la ni hay Tối Thắng Phật Đỉnh Đà la ni tĩnh trừ nghiệp chướng chú kinh. Phần lạc khoản khắc sau bài chú, nội dung gồm thông tin về họ tên, tước phong, chức vụ của người cho dựng cột kinh, lý do dựng cột kinh, những thông tin này là căn cứ để xác định niên đại, thời gian dựng cột kinh. Dựa vào những phần chữ Hán, tạm dịch nghĩa bài chú kinh Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà la ni cùng lạc khoản khắc trên cột kinh:
“Thần chú linh thiêng kinh Phật Đỉnh Tôn Thắng nói rằng:
Nam mô Thế tôn, đấng Thế tôn đại giác cao cả của Tam giới, như vậy.
Thanh tĩnh, thanh tĩnh toả sáng khắp nơi, thanh tĩnh của tự nhiên tràn đầy rừng rậm. Hãy rưới nước phép cho tôi, hỡi đấng Thiện Thệ tối cao! Hãy rưới cho tôi nước cam lồ bất tử! Hãy ban cho tôi, ban cho tôi tuổi thọ! Thanh tĩnh, thanh tĩnh, cái thanh tĩnh hư không. Thanh tĩnh của Phật Đỉnh Tôn Thắng với nghìn ánh sáng làm con người kinh động mà giác ngộ. Thần lực của tất cả các đấng Như Lai nắm giữ đại ấn. Kim Cương bao phủ, con người thanh tĩnh. Thanh tĩnh khi mọi trở ngại và nghiệp chướng tiêu tan. Thanh tĩnh, tuổi thọ tăng. Thề nguyền giữ gìn bảo pháp. Cõi Chân Như tràn đầy muôn nghìn thanh tĩnh. Thanh tĩnh, tri giác hiện rõ. Tối Thắng, Tối Thắng, Tối Thắng. Tưởng niệm, tưởng niệm. Tất cả chư Phật nắm giữ thanh tĩnh. Hỡi đấng Kim Cương Tạng, tôi [người viết và dựng kinh tràng này] cầu nguyện đạt đến Kim Cương. Tất cả chúng sinh thanh tĩnh; tất cả định mệnh thanh tĩnh; tất cả các đấng Như Lai an ủi, khiến được giác ngộ. Giác ngộ, giác ngộ. Thanh tĩnh khắp nơi. Thần lực của tất cả các đấng Như Lai nắm giữ đại ấn, Svàhà!.
Nội dung lạc khoản không đề cụ thể năm tạo dựng, nhưng qua việc nêu lý
do dựng cột kinh (cầu cho người em đã chết, cầu chúc cho Hoàng đế, cầu thọ
mệnh cho bản thân), thông tin tước phong, chức vụ của người cho dựng cột kinh
là Đinh Khuông Liễn, có thể xác định niên đại trong khoảng từ mùa xuân năm
Kỷ Mão (979), khi Đinh Khuông Liễn hạ sát Đại đức Đính Noa Tăng Noa (tức [Đinh] Hạng Lang) đến tháng 10 mùa đông cùng năm, khi Đỗ Thích ám sát vua
Đinh Tiên Hoàng cùng con trưởng của vua là Đinh Khuông Liễn. 100 tòa kinh báu thời Đinh vì thế có thể không dựng cùng thời điểm, sớm nhất được bắt đầu (căn cứ theo thông tin lạc khoản) từ năm 973 và tiếp tục cho tới cuối năm 979.
Cột kinh Phật thời Đinh đã được công nhận là Bảo vật Quốc gia vào cuối tháng 12 năm 2023 vì đã đạt được những tiêu chí như:
Cột kinh thời Đinh là hiện vật nguyên gốc, độc bản với đặc trưng riêng, số lượng ít, hiếm trong hệ thống bi ký, hiện vật văn khắc đá nói chung hiện còn. Cột kinh này có niên đại sớm hơn cột kinh Phật thời Tiền Lê tại chùa Nhất Trụ (năm 995). Cột kinh thời Đinh có kích thước nhỏ hơn, tuy nhiên cấu trúc, tạo hình các bộ phận cột kinh thời Đinh có hình thức tạo tác chi tiết, khéo léo hơn so với cột kinh chùa Nhất Trụ. Cột kinh thời Đinh là hiện vật có hình thức độc đáo, giá trị về nghệ thuật. Hình thức độc đáo của cột kinh thời Đinh không chỉ ở kích thước, mà còn ở cách kết cấu và cấu trúc, thể hiện sự khéo léo trong phong cách và tư duy thẩm mỹ tạo hình, cụ thể:
Sự kết hợp hài hòa giữa các hình, khối cơ bản. Một cột kinh hoàn chỉnh được lắp ghép từ 6 bộ phận, trong đó mỗi bộ phận có hình khối và chức năng riêng biệt. Nhìn tổng thể, cột kinh thời Đinh có tỷ lệ hài hòa giữa các bộ phận, cho thấy sự kết hợp khá hoàn hảo giữa các khối cơ bản và các biến thể trong điêu khắc: khối vuông, khối tròn, khối trụ...
Kỹ thuật tạo tác độc đáo: phương pháp ghép mộng, gắn kết không sử dụng chất phụ gia. Đây là một điểm độc đáo đáng chú ý của cột kinh thời Đinh, từ những khối đá được tạo tác hình khối cơ bản (vuông, tròn, trụ), việc gắn kết để tạo dựng một cột kinh tổng thể không chỉ đòi hỏi kỹ thuật thực hiện, mà còn cần cả tư duy thẩm mỹ để đảm bảo tính ứng dụng cũng như thẩm mỹ. Sự vừa khớp của các lỗ mộng và chốt gần như hoàn hảo. Điều này giúp cho cả 6 bộ phận khi lắp ráp đều chồng khớp, không hề sử dụng chất phụ gia để gắn kết mà vẫn chắc chắn. Các cột kinh phát hiện thời Đinh cho đến nay ở Hoa Lư cho thấy các cột đều có cùng phương pháp tạo tác, liên kết bằng ghép mộng, không sử dụng phụ gia gắn kết.
Giá trị nghệ thuật của cột kinh thời Đinh thể hiện ở giá trị thẩm mỹ và những trải nghiệm thẩm mỹ liên quan đến hình thức, hoặc giá trị biểu tượng mà cột kinh đem lại. Về giá trị thẩm mỹ, tạo hình các chi tiết cho thấy sự khéo léo, tư duy thẩm mỹ của người thợ tạc đá đương thời. Cột kinh tạo tác bằng đá, do đó sự tác động của thời gian và hành vi của con người dễ dàng dẫn tới những tác động không nhỏ đến các bộ phận của cột kinh. Tuy nhiên, sự toàn vẹn (một cách tương đối) của một cột kinh được tạo tác khá hoàn chỉnh về tỷ lệ, thế dáng và kết cấu đã tạo nên một phong cách riêng trong kỹ thuật tạo tác và tư duy thẩm mỹ. Bên cạnh hình thức cấu tạo từ các hình khối, minh văn chữ Hán khắc trên cột kinh cũng cho thấy sự khéo léo của người thợ, trải qua nhiều thế kỷ, nét chữ khắc trên cột kinh vẫn khá sắc nét, mềm mại. Về trải nghiệm thẩm mỹ, cột kinh thể hiện rõ nét tính đối xứng và đều đặn. Để cột kinh có thể đứng độc lập mà không cần đến các chất phụ gia gắn kết, đòi hỏi tư duy tạo hình và thẩm mỹ trong việc tạo nên tính đối xứng và đều đặn của một cột kinh. Điều này cho thấy giá trị thẩm mỹ và giá trị nghệ thuật của một giai đoạn lịch sử, để ngày nay chúng ta có cơ hội được chiêm ngưỡng, thưởng thức.
Cột kinh thời Đinh là hiện vật có giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa. Cột kinh Phật thời Đinh do Nam Việt vương tạo dựng để cầu chúc cho Đại Thắng Minh Hoàng đế, cầu siêu cho em trai là Đinh Hạng Lang, là lời cầu thọ, cũng có thể được xem như lời sám hối của bản thân Đinh Khuông Liễn. Trải hơn 1.000 năm, sưu tập cột kinh Phật thời Đinh là những hiện vật có giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa. Minh văn trên cột kinh là những văn bản chữ Hán, đây là nguồn sử liệu thành văn duy nhất được lập dưới triều Đinh hiện còn. Bản thân văn tự chữ Hán trên cột kinh không chỉ ghi chép sự kiện lịch sử, mà còn phản ánh, minh chứng cho sự phát triển của chữ viết ở thế kỷ X. Nội dung minh văn khắc trên cột kinh cung cấp nhiều thông tin lịch sử quý giá, liên quan đến các vấn đề về tôn giáo, quan hệ xã hội, chế độ ban cấp ruộng đất thời Đinh… nhiều trong số đó chưa từng được phản ánh trong nhiều tài liệu thư tịch khác. Chẳng hạn, nội dung lạc khoản cột kinh thời Đinh chép việc vua Tống phong tước cho Đinh Tiên Hoàng, Đinh Khuông Liễn, phản ánh những biến động trong nội bộ hoàng tộc nhà Đinh.... Đại Thắng Minh Hoàng đế là đế hiệu của vua Đinh Tiên Hoàng. Còn Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, đặc tiến Kiểm hiệu Thái sư là tước vua Tống ban phong cho Đinh Liễn năm 973 khi Đinh Liễn đi sứ Trung Quốc. Theo thông tin phần lạc khoản, Đinh Liễn được phong thực ấp một vạn hộ. Thực ấp là một hình thức ruộng ban cấp được ghi chép nhiều từ thời Lý. Qua lạc khoản cột kinh thời Đinh, chúng ta biết thêm một cách chắc chắn hình thức ban cấp thực ấp này đã có từ thời Đinh. Thông tin chép trên cột kinh bổ sung, cho chúng ta biết họ tên đầy đủ người con trưởng của vua Đinh Tiên Hoàng có tên đệm “Khuông” 匡 - Đinh Khuông Liễn (chính sử Việt Nam [Đại Việt sử ký toàn thư] và thư tịch Trung Quốc [Tống sử] đều chỉ chép Đinh Liễn 丁璉). Đinh Khuông Liễn cho dựng “bảo tràng nhất bách tọa” (100 tòa kinh báu) để cầu cho người em là Đính Noa Tăng Noa. Người em này, sử liệu cũ chép tên Hạng Lang, ở đây cần chú ý chi tiết chữ “Đính” 頂 rất gần về tự dạng với chữ “Hạng” 項.
Với niên đại tạo tác hơn 1.000 năm, ghi chép, phản ánh những thông tin lịch sử đương thời, trong bối cảnh tài liệu về Phật giáo Việt Nam thế kỷ X hiện còn lại rất ít, cột kinh Phật thời Đinh là tài liệu vô cùng quý, hiếm. Đây chính là bi ký có niên đại sớm nhất của thời kỳ phong kiến tự chủ hiện còn.
Mỹ Dung