Trung tâm bảo tồn di tích Lịch sử - Văn hoá Cố đô Hoa lư Ninh Bình

CẦU ĐÔNG VỚI NGƯỜI DÂN CỐ ĐÔ HOA LƯ

Thứ ba, 29/10/2024 , Đã xem: 256
  • Đánh giá cho bài viết:
  • 0 điểm ( 0 đánh giá )

CẦU ĐÔNG VỚI NGƯỜI DÂN CỐ ĐÔ HOA LƯ

Cố đô Hoa Lư là kinh đô của Việt Nam giai đoạn 968 - 1010. Đây là kinh đô đầu tiên của Nhà nước Phong kiến Trung ương tập quyền ở Việt Nam. Kinh đô Hoa Lư tồn tại 42 năm gắn với sự nghiệp của ba triều đại liên tiếp (nhà Đinh, nhà Tiền Lê, nhà Lý) và mang nhiều dấu ấn lịch sử của dân tộc. Ở khu di tích Cố đô Hoa Lư ngày nay, khu thành ngoại, thành nội còn nhiều địa danh gắn liền với lịch sử hình thành đô thị cổ Hoa Lư, trong đó có địa danh cầu Đông. Hiện nay, những tài liệu ghi chép về địa danh này không nhiều nên việc tìm hiểu sẽ giúp chúng ta có cái nhìn sâu hơn về địa danh có giá trị lịch sử ấy.

Cầu Đông là địa danh quen thuộc, gần gũi với người dân Trường Yên (Hoa Lư - Ninh Bình) hiện nay nhưng ít ai biết rằng tên gọi ấy đã xuất hiện từ thời Hoa Lư là Kinh đô của Đại Cồ Việt vào thế kỷ X. Một số tư liệu ghi chép của các sử gia đã nhắc tới địa danh này. Vào thời nhà Nguyễn trong “Đại Nam nhất thống chí” tập 3, có ghi: “Đô cũ nhà Đinh, nhà Lê ở xã Trường Yên Thượng và Trường Yên Hạ, về phía tây bắc huyện Gia Viễn, có nội thành và ngoại thành, có cửa xây bằng đá, lại có các danh hiệu: cầu Đông, cầu Đền, cầu Muống, Tràng Tiền, chùa Tháp, chùa Nhất Trụ v.v, nền cũ vẫn còn. Khi Lý Thái Tổ dời đô đến Thăng Long đều dùng theo các danh hiệu ấy” (Viện sử học 2006, tr 305). Còn trong “Hoàng Việt nhất thống dư địa chí”, tác giả Lê Quang Định (dịch giả Phan Đăng) cũng nhắc tới địa danh này: “Tương truyền Đinh Tiên Hoàng thời niên thiếu chăn trâu ở đồng ruộng xã Uy Tổ, ông tập họp các bạn chăn trâu bẻ bông lau chơi trò tập trận, dùng cây dâu làm kiếm. Khi chơi có bạn tiến thoái không hợp cách, ông đùa dùng kiếm gỗ chém đầu làm lệnh nhưng đầu bỗng rơi xuống, mẹ ông thấy vậy quá hoảng sợ bèn chạy đến báo với người chú là Đinh Công Dự, người chú cầm kiếm đuổi theo ông, ông liền cưỡi trâu chạy ra bến sông muốn bơi qua, gặp ngay lúc ấy có hai con rồng vàng giúp ông qua được sông ấy. Sau khi có được thiên hạ ông bèn đặt tên bến đò này là Hoàng Long rồi dựng đô ở xã Trường An, nay ở đây đang còn miếu thờ và nổi tiếng là linh ứng, nay chuẩn ban cho 40 suất dân để lo việc thờ phụng. Bên ngoài miếu này, các di tích hiện vẫn còn như Cầu Dền, Cầu Mống, Bến Trang, Chùa Tháp, Cống Đá, Cầu Đông. Cho nên khi nhà Lý dời đô ra Thăng Long mà vẫn giữ nguyên các tên ấy là vì không muốn quên dấu cũ của triều trước” (tr. 172).

Tác giả Trần Trí Dõi trong bài viết “Giả thiết về những địa danh tương ứng giữa Thăng Long với Hoa Lư: Vấn đề phục dựng và khai thác giá trị văn hóa phục vụ cho hoạt động du lịch” cho rằng: Cầu Đông là địa danh mang yếu tố thuần Việt về mặt ngôn ngữ học và ở khía cạnh lịch sử ngôn ngữ người Việt. Ở góc nhìn ngôn ngữ học, yếu tố tên riêng Đông trong tổ hợp địa danh Cầu Đông thuần túy là một yếu tố gốc Hán. Nhưng tên riêng Đông này được người Việt sử dụng như một yếu tố thuần Việt cả ở góc nhìn ngữ nghĩa và ngữ pháp. Sở dĩ có điều này là do trong quá trình phát triển ngôn ngữ, người Việt đã vay mượn yếu tố này từ rất sớm (ngay sau giai đoạn tiền Việt). Ở thời kỳ tiền Việt đó, trong ngôn ngữ của cộng đồng người Việt vẫn chưa dùng hệ thống đông, tây, nam, bắc để chỉ phương vị. Nên hệ thống chỉ phương vị này của tiếng Hán được ngôn ngữ người Việt vay mượn và sử dụng nó trong hàng nghìn năm. Đến thế kỷ X đã trở thành yếu tố thuần Việt về mặt chức năng. Trong trạng thái cảnh huống ngôn ngữ như thế, tên gọi cầu Đông ở Cố đô Hoa Lư vào thời Đinh - Tiền Lê hoàn toàn không xa lạ với cư dân người Việt. Nên đây thực sự là cây cầu ở về phía Đông của Cố đô Hoa Lư.

Ngoài được ghi chép trong sử sách, trong các tài liệu nghiên cứu, địa danh cầu Đông còn được định vị trong Sơ đồ Kinh đô Hoa Lư.

Sơ đồ Kinh đô Hoa Lư (Nguồn: Wikepedia, Cố đô Hoa Lư…)

Có thể thấy, những ghi chép và nghiên cứu trên là những tư liệu quý giúp chúng ta chắc chắn về sự hiện hữu của địa danh này từ thời Đinh - Tiền Lê cho đến ngày nay.

Cầu Đông cũng như bao cây cầu khác luôn gắn liền với đời sống sinh hoạt thường ngày của con người. Truyền thuyết cũng kể rằng: Trường Yên vào thế kỷ X, khu vực thành nội không có người dân sinh sống. Tất cả cư dân ở đây đều tập trung sinh hoạt ở vị trí thành ngoại. Nơi đây, hoạt động thương nghiệp phát triển có thương cảng, có xưởng thủ công… Con đường bộ quan trọng vào kinh đô Hoa Lư thời điểm lúc giờ là “Cửa Đông”. Người ta gọi cửa thành này là Đông Môn - nơi văn võ bá quan qua lại mỗi khi vào triều bệ kiến và dân chúng vào kinh đô. Theo văn bia Cầu Lòn (sông Chanh) dựng năm Tự Đức 31 (1880), con đường bộ phía Đông này được gọi là lộ Tiên Yết[1]. Trên lộ Tiên Yết, ngoài trạm tiền tế ở động Thiên Tôn; hai trạm kiểm tra ở Quán Vinh, trấn Áng Ngũ thì cầu Đông là cửa ngõ phía Đông vào kinh thành Hoa Lư. Do vậy, cầu Đông là một trong những lối vào quan trọng của kinh đô Hoa Lư thời xưa.

Cầu Đông từ thời Đinh - Tiền Lê tới nay đã trải qua nhiều lần sửa chữa. Bản dịch trên bia Cầu Đông (gần cầu Đông) đã ghi lại việc quyên góp xây dựng cầu Đông. Cầu được các quan viên và Văn thân (thân hào) trong tỉnh và các tỉnh lân cận cùng với lý dịch, kỳ lão trong huyện, trong xã cùng nhau chung sức quyên giúp vào ngày tốt tháng 9 năm thứ 28 đời vua Tự Đức (1875)[2]. Sau thời điểm này, cầu Đông cũng được sửa chữa, nâng cấp nhiều lần nữa để phục vụ cho đời sống sinh hoạt của người dân.

Ngày nay, cầu Đông có diện mạo bền - chắc - kiên cố và là một trong những con đường đi lại thuận tiện trong việc giao dịch mua bán, sinh hoạt hàng ngày… của người dân Trường Yên cũng như du khách đến tham quan, chiêm bái khu di tích Cố đô Hoa Lư.

[1] Nguyễn Kim Cúc – Đôi nét về bố phòng kinh thành Hoa Lư thế kỷ X - https://codohoalu.vn/vi/baidang-305/doi-net-ve-bo-phong-kinh-thanh-hoa-lu-the-ky-x.html 

[2] Nguyễn Thị Kim Cúc – Bia Cầu Đông (Đông Kiều) - https://codohoalu.vn/vi/baidang-206/bia-cau-dong-dong-kieu.html

(Nguồn: Wikepedia, Cố đô Hoa Lư)

Có thể thấy, hình ảnh cầu Đông bắc qua con sông Sào Khê xuyên dọc kinh đô, nối liền đôi bờ đã góp phần làm tăng thêm nét đẹp hài hòa, nên thơ trữ tình cho không gian vùng đất Cố đô. Nằm giữa cầu Đông và cầu Dền là chợ cầu Đông. Chợ cầu Đông (Trường Yên) là một chợ cổ, có lịch sử gắn với quá trình hình thành và phát triển đô thị cổ Hoa Lư và các làng cổ Yên Thành, Yên Trung, Yên Thượng thuộc xã Trường Yên.

Cầu Đông cùng với chợ cầu Đông không chỉ gần gũi, thân thuộc với người dân Trường Yên mà còn được gửi gắm vào lời bài hát “Chị tôi” của nhạc sĩ Trần Tiến thật dung dị, cảm động:

“Nhà tôi trên bến sông có chiếc cầu nhỏ cong cong

Hàng cau trong nắng trong, lá trầu không.

Chị tôi trông dễ thương, bán rau chợ Cầu Đông í a

Chị tôi chưa lấy chồng”.

Bài hát “Chị tôi” được Trần Tiến phổ nhạc từ bài thơ cùng tên của một cựu sinh viên xây dựng. Sau năm 1980, bài thơ được Trần Tiến sử dụng để sáng tác thành ca khúc nổi tiếng. Nguyên gốc của bài thơ được sáng tác theo thể lục bát không hoàn toàn giống lời bài hát của Trần Tiến. Đoạn đầu bài thơ được nhiều người cho rằng như sau:

“Nhà tôi nằm ở ven sông

Chiếc cầu nho nhỏ cong cong giữa đồng

Hàng cau với lá trầu không

Chị tôi đem bán cầu Đông sớm chiều…”[3]

Nhạc sĩ Trần Tiến cho hay: nhân vật “chị tôi” trong bài hát là có thật. Bài hát nói về số phận người thôn nữ ở một vùng quê thuộc vùng châu thổ Bắc Bộ. Trong lời bài hát chỉ có một địa danh chợ cầu Đông xuất hiện và cô thôn nữ ấy chính là chị gái của tác giả bài thơ, nhà ở gần cầu Đông. Nhiều người cho rằng, địa danh chợ cầu Đông trong bài hát là chợ Đồng Xuân - Hà Nội. Đó là một suy luận sai lệch hoàn toàn với nội dung lời bài hát đã thể hiện: Nhà tôi trên bến sông, chị tôi bán rau chợ cầu Đông… sau nhiều năm xa cách tôi trở về làng quê thăm mộ chị tôi bên cầu… Nên địa danh cầu Đông không thể ở giữa lòng thành phố mà phải ở một vùng quê hẻo lánh xa xôi, cụ thể là ở gần chợ cầu Đông bắc qua sông Sào Khê ở xã Trường Yên - Hoa Lư - Ninh Bình. Có như vậy thì mới có chuyện người đàn ông về xây chiếc cầu nối bờ vui và gặp “chị tôi”3.

Theo lời của các cao niên làng Yên Thành (Trường Yên), nhân vật “tôi” - tác giả bài thơ “Chị tôi” - là con trai út trong gia đình có ba người con. Ông sinh năm 19473, trước ông là hai chị gái. Bố ông mất sớm, mẹ ông bị ốm phải nằm một chỗ và cũng mất năm ông 20 tuổi. Theo phong tục cũ, người con gái khi cha mẹ mất phải để tang 3 năm nên người chị cả của ông đã lỡ bước khi “người đàn ông” trong bài hát không đủ kiên nhẫn để chờ đợi nữa. Và khi nhân vật “tôi” trở thành kỹ sư xây dựng, mỗi lần trở về quê cũ, ông thường mang trong lòng nhiều cảm xúc khi tất cả kỷ niệm về người chị cả thân thương chỉ còn là những hồi ức. Bài thơ của chàng kĩ sư ấy đã trở nên nổi tiếng khi nó được nhạc sĩ Trần Tiến sử dụng và đưa vào lời bài hát của mình. Có thể nói, bài hát “Chị tôi” được coi như một tặng phẩm mà nhạc sĩ Trần Tiến đã gửi tặng người dân Trường Yên nói riêng, người dân Hoa Lư nói chung. Ca khúc có thể được ví như một “di sản văn hóa phi vật thể” góp phần làm giàu thêm truyền thống văn hóa của mảnh đất oai hùng từng là kinh đô của nước Việt. Theo đó, địa danh cầu Đông cùng với “bến sông”, “hàng cau”, “lá trầu” cho đến nay cũng vẫn còn ngân vang mãi trong lời bài ca ấy cũng như trong lòng người dân Trường Yên

[3] Nguyễn Cao Tấn - Về cầu Đông nghe bài hát “Chị Tôi” - https://dotchuoinon.com/2016/05/24/tan-nhac-vn-tho-pho-nhac-chi-toi-khuyet-danh-tran-tien/

Tác giả Nguyễn Cao Tấn trong bài “Đô thị cổ Hoa Lư” cũng cho rằng cầu Đông ở Trường Yên gắn với hang thầy Bói, với câu chuyện bà già đi chợ cầu Đông.  Và dân gian Trường Yên cũng có câu:

“Bà già đi chợ cầu Đông

Xem một quẻ bói lấy chồng lợi chăng?

Thầy bói gieo quẻ nói rằng

Lợi thì có lợi nhưng răng không còn”.

Có thể thấy, địa danh cầu Đông không chỉ được gửi gắm vào thơ, vào nhạc với tất cả tâm tình của người sáng tác mà còn đi vào ca dao với sự vui tươi và hài hước. Với lối chơi chữ, tác giả dân gian không chỉ tạo ra sự hóm hỉnh, vui cười mà thông qua đó còn mỉa mai những kiểu người sống xa rời thực tế, không nhìn nhận rõ thực tại và những kiểu người như ông thầy bói trong bài ca dao đi dối gạt những người nhẹ dạ, cả tin.

Như vậy, cầu Đông không chỉ là một trong những lối đi lại quan trọng trong đời sống, phục vụ nhu cầu sinh hoạt thường ngày mà nó còn góp mặt trong tiến trình phát triển lịch sử dân tộc, trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân Trường Yên. Hình ảnh cầu Đông đã đi sâu vào tiềm thức cũng như niềm tự hào của mỗi người dân nơi đây. Theo thời gian, cây cầu ấy đã lưu giữ bao dấu ấn lịch sử một thời của kinh đô Đại Cồ Việt thế kỷ X, lưu giữ bao tình cảm chân thành, bao kỷ niệm đáng nhớ của người dân Cố đô Hoa Lư.

Hồng Tâm

 

Danh sách liên quan